Sỏi thận tiết niệu
12-04-2025
Sỏi thận tiết niệu là trình trạng bệnh lý đã được đề đến từ rất lâu trong y văn và là một bệnh thường gặp, dễ gây biến chứng như nhiễm trùng, suy thận. Ngày nay chúng ta không những xác định được vị trí của sỏi ở hệ tiết niệu mà quan trọng hơn là chúng ta đã có thể loại trừ sỏi thận tiết niệu nhanh chóng. Việc điều trị sỏi thận tiết niệu đã trở nên dễ dàng hơn nhờ các tiến bộ y học.
Sỏi tiết niệu chiếm 45-50% các bệnh tiết niệu ở Việt Nam và có tần suất mắc là 2-12% dân số (theo Hội Tiết Niệu – Thận học Việt Nam 8/2020). Tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn nữ, lứa tuổi thường gặp 30-60 tuổi (75-80%) (Theo các điều tra đến năm 2020). Tỷ lệ suy thận mạn ở bệnh nhân sỏi thận là 31-44% qua các thống kê khác nhau. Các yếu tố địa dư, khí hậu và chế độ ăn uống ảnh hưởng đến sự hình thành sỏi.
Sỏi thận tiết niệu là một bệnh lý thường gặp, triệu chứng có khi dữ dội, có khi âm thầm. Dù diễn biến thế nào, nếu bàng quang với bệnh, dẫn đến các biến chứng vô cùng nặng nề. Suy thận mạn, lọc máu chu kỳ, xin ghép tạng… Hậu quả ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe nhân nhân, tốn kém cho xã hội, làm trì trệ địa phương kém phát triển, tạo gánh nặng cho người bệnh, người nhà.
Tuy thoạt đầu bệnh có vẻ đơn giản, nhưng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, sỏi thận và sỏi tiết niệu có thể gây ra hàng loạt biến chứng nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng của thận và sức khỏe tổng thể của người bệnh.
Triệu chứng nổi bật nhất khi bị sỏi là cơn đau quặn thận, xảy ra khi sỏi di chuyển trong niệu quản, làm tắc nghẽn dòng nước tiểu. Đau thường: Xuất hiện đột ngột, dữ dội, lan từ lưng xuống hông, bụng dưới và vùng sinh dục. Có thể kèm theo buồn nôn, nôn, vã mồ hôi. Thường khiến người bệnh không thể nằm yên, phải thay đổi tư thế liên tục.Cơn đau do sỏi thận được đánh giá là một trong những loại đau dữ dội nhất, ngang ngửa với cơn đau đẻ hoặc đau do gãy xương.
Tác hại lớn nhất và nghiêm trọng nhất của sỏi thận là suy thận mạn tính. Quá trình diễn ra như sau: Sỏi gây tắc nghẽn → ứ nước thận → tăng áp lực trong thận. Mô thận bị chèn ép, hoại tử dần → mất chức năng lọc máu. Viêm mạn tính quanh sỏi cũng làm xơ hóa cầu thận, ống thận. Dần dần, thận bị teo nhỏ, mất chức năng hoàn toàn. Khi cả hai thận bị tổn thương nặng, bệnh nhân phải chạy thận nhân tạo hoặc ghép thận để duy trì sự sống. Đây là hậu quả nặng nề nhất của bệnh lý sỏi tiết niệu.
Tỷ lệ tái phát sỏi rất cao, có thể lên đến 50% trong 5 năm sau điều trị, nếu không thay đổi lối sống và chế độ ăn. Điều này khiến người bệnh phải điều trị lặp đi lặp lại, phẫu thuật nhiều lần, chi phí tăng cao.
Sỏi thận – tiết niệu không chỉ là vấn đề y tế cá nhân, mà còn gây ra nhiều hệ lụy kinh tế. Chi phí điều trị cao: Từ xét nghiệm, siêu âm, chụp CT, thuốc, đến phẫu thuật (nội soi, tán sỏi, mổ mở, mổ nội soi sau phúc mạc…). Mất thời gian lao động: Người bệnh phải nghỉ làm, giảm năng suất lao động, đặc biệt là người lao động phổ thông. Gánh nặng cho hệ thống y tế: Tỷ lệ nhập viện, tái khám cao, cần can thiệp chuyên sâu. Tác động đến gia đình: Người thân phải chăm sóc, hỗ trợ dài ngày, ảnh hưởng tài chính và tinh thần chung.
Trong một số trường hợp, sỏi có thể gây biến chứng đột ngột, nếu không xử trí kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Vô niệu cấp: Sỏi làm tắc hoàn toàn cả hai niệu quản, nước tiểu không thoát ra được → thận ngừng hoạt động cấp tính. Nhiễm trùng tiết niệu nặng → nhiễm trùng huyết: Tình trạng sốc nhiễm trùng xảy ra rất nhanh, cần điều trị hồi sức tích cực. Suy thận cấp hoặc mạn giai đoạn cuối: Khi không lọc được chất độc → tử vong nếu không chạy thận/gây mê kịp thời.
Hàng ngày, tôi ngồi ở phòng siêu âm, đều thấy có người bị sỏi thận, ít thì 1-2 ca nhiều thì chục ca, tôi hỏi họ, xem họ uống nước thế nào, thường câu trả lời là khát thì uống, thật quá buồn, tôi luôn nhắc họ về nhà chăm uống nước, vừa để sỏi ra, vừa phòng tái phát, uống nước nhiều chỉ có lợi thôi. Trên bàn, khi nào tôi cũng có cốc nước bên cạnh mình. Tôi vẫn luôn trăn trở rất nhiều.
Nguyên nhân của sỏi thận tiết niệu: bắt nguồn từ các muối khoáng hòa tan trong nước tiểu. Khi có những rối loạn về mặt sinh lý bệnh học và có những yếu tố thuận lợi như giảm lưu lượng nước tiểu, nhiễm khuẩn tiết niệu, dị dàng đường tiết niệu hoặc có các yếu tố di truyền thì các muối khoáng hòa tan sẽ kết tinh từ một nhân nhỏ rồi lớn dần thành sỏi. Urat, cystin, Tamm- Horsfall protein, pH nước tiểu thấp, uống ít nước, một số sản phẩm của chuyển hóa của vi khuẩn hoặc các nguyên nhân dẫn đến cô đặc nước tiểu là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình hình thành sỏi. Thức ăn giàu oxalate, calci cũng là yếu tố thuận lợi. Một số thuốc Corticoids, Vitamin C, Acyclovir … thúc đẩy hình thành sỏi. Sỏi hay gặp: Sỏi Calci chiếm 65-70%: calci oxalat, calci phosphat... Sỏi PAM do vi khuẩn lên men ure gây ra (15-20%). Sỏi do chuyển hóa: Sỏi urat, sỏi cystin… (10%)
Siêu âm là một kỹ thuật tốt để chẩn đoán sỏi thận tiết niệu. Đây là phương pháp giá rẻ, dễ làm, có độ nhạy cao: XQ không phát hiện được sỏi không cản quang, sỏi nhỏ, CT - MRI đắt tiền không được áp dụng thường quy.
Điều trị sỏi nội khoa: với sỏi nhỏ < 1cm, uống nhiều nước >2.5 lit/ngày, dùng các thuốc tiêu sỏi, giãn cơ trơn, chống viêm... đẩy sỏi ra ngoài theo đường sinh lý. Điều trị ngoại khoa với sỏi lớn: Tán sỏi: tán sỏi ngoài da, tán sỏi qua da, tán sỏi ngược dòng tùy vị trí và kích thước sỏi. Mổ: đường mổ qua hố thận, tiếp cận tử vỏ thận đến xoang thận.
Hãy uống nhiều nước, vừa là dự phòng, vừa điều là điều trị sỏi tiết niệu. Chung tay xây dựng một xã hội không sỏi thận.
BSCKI. Hồ Trọng Hiếu













.jpg)
